Người ta hy vọng mọi chuyện sẽ trở lại “bình thường”, nhưng đón chờ thế giới sẽ là một trạng thái “bình thường” hoàn toàn khác.
Trong từ điển chính trị lần đầu xuất bản năm 1968, William Safire dành một mục cho từ “trạng thái bình thường”. Thuật ngữ này trở nên phổ biến nhờ chiến dịch tranh cử Tổng thống của Warren Harding sau thế chiến thứ nhất.
Nó trở nên quen thuộc sau vụ tấn công khủng bố ngày 11/09/2001. Người ta sử dụng cụm từ “trạng thái bình thường” khi người ta không còn coi những điều bình thường là hiển nhiên nữa.
Vì thế cũng không mấy bất ngờ khi cụm từ này lại xuất hiện trong bản thông cáo của các lãnh đạo nhóm các nền kinh tế lớn nhất thế giới G20 sau hội nghị Pittsburg.
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ năm ngoái, dân chúng khao khát sự ổn định, hay nói cách khác, “trạng thái bình thường”.
Vậy “trạng thái bình thường” của nền kinh tế thế giới sau cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất kể từ thời Đại suy thoái sẽ như thế nào?
“Trạng thái bình thường” mới …
Giá cổ phiếu hay những dự báo ngắn hạn đem lại cảm giác thoải mái. Sản lượng của các nền kinh tế lớn nhất đã ngừng giảm. Trong dự báo mới nhất IMF dự báo GDP toàn cầu năm tới sẽ tăng trưởng 3,1%, cao hơn 1,2% so với dự báo hồi tháng 4.
Thị trường chứng khoán toàn cầu đã tăng 64% kể từ đáy. Thị trường vốn đang tan băng nhanh chóng. Các nhà phân tích bi quan một lần nữa phải xem lại dự báo của mình.
Dù vậy vẫn cần phải thận trọng. Dù đã tăng trưởng, còn lâu kinh tế thế giới mới lại họat động “bình thường”.
Thất nghiệp vẫn tăng còn máy móc vẫn chưa hoạt động hết công suất. Tăng lượng hàng tồn kho sẽ không giúp sản lượng tăng lâu dài. Sự hào phóng của chính phủ chứ không phải tính bầy đàn đang thúc đẩy tiêu dùng trên toàn cầu.
Những gói kích thích tài khóa tiền tệ khổng lồ giảm thiểu thiệt hại đối với hộ gia đình và ngân hàng, nhưng những vấn đề nội tại vẫn còn. Ở Mỹ và các nền kinh tế bong bóng khác, vay nợ hộ gia đình vẫn cao một cách đáng lo ngại, còn ngân hàng rất khát vốn.
Tức là tiêu dùng sẽ thấp hơn và chi phí vốn vay sẽ cao hơn thời tiến suy thoái. Kinh tế thế giới có thể được hưởng vài quý tăng trưởng ấn tượng, nhưng nó sẽ không bao giờ trở lại như xưa.
Chỉ riêng điều đó không thôi sẽ làm hạ nhiệt những cái đầu nóng trên thị trường tài chính. Nhưng ngay cả “trạng thái bình thường mới” cũng có ít nhất hai khả năng.
Một là kinh tế thế giới sẽ trở lại mức tăng trưởng tiền khủng hoảng. IMF chỉ ra rằng đây là điều thường diễn ra sau khủng hoảng tài chính.
Khả năng xấu hơn là tăng trưởng sẽ giữ mãi ở mức thấp vì tăng trưởng đầu tư, việc làm và năng suất đều yếu hơn trước.
Sự khác biệt giữa hai kịch bản này là rất lớn. Tốc độ tăng trưởng tiềm năng thấp có thể dẫn đến một tương lai u ám khi thu nhập trì trệ và kỳ vọng yếu ớt. Đó là điều các nhà hoạch định chính sách cần tránh trước tiên.
Nếu muốn làm được điều đó, họ phải thực hiện những nhiệm vụ thật tréo nghoe: duy trì sức cầu mà không làm thâm thủng ngân sách; hạn chế thất nghiệp mà không ngăn cản tái cơ cấu lực lượng lao động; và quan trọng hơn hết là thúc đẩy thương mại và sáng kiến, hai động lực quan trọng nhất của tăng trưởng.
Duy trì sức cầu là nhiệm vụ cấp thiết nhất. Chi tiêu toàn cầu cần được tái cân đối: người tiêu dùng Mỹ nợ nần chồng chất phải cắt giảm chi tiêu, trong khi các nước tiết kiệm nên tiêu nhiều và để dành ít hơn.
Trung Quốc cần một đồng tiền mạnh hơn, an sinh xã hội tốt hơn và điều chỉnh chính sách trợ cấp để tăng tỷ lệ thu nhập quốc dân chảy vào túi công nhân. Đức và Nhật cần tái cơ cấu để tăng chi tiêu, đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ.
Hội nghị G20 đã cải thiện điều từ lâu vẫn còn thiếu, quyết tâm chính trị. Tuyên bố chung Pittsburgh hứa sẽ cùng “thảo luận ngang hàng” chính sách kinh tế của các nước thành viên.
Những cuộc thảo luận này có thể chẳng mấy tác dụng nhưng bản thân cam kết đã là một bước tiến lớn.
Chi tiêu cá nhân tại các nước có thặng dư thương mại sẽ không tăng vọt chỉ sau một đêm. Kinh tế thế giới dựa vào chính phủ nhiều hơn người ta tưởng.
Điều chỉnh chính sách tài khóa quá sớm có thể hủy hoại quá trình phục hồi, như với nước Mỹ năm 1937 và Nhật Bản 60 năm sau đó.
Rút cục chính phủ sẽ phải điều chỉnh ngân sách, nhưng chỉ khi khu vực tư nhân đã đủ mạnh, và phải điều chỉnh sao cho có lợi cho tăng trưởng tiềm năng. Điều chỉnh nên đến từ cắt giảm chi tiêu. Khi doanh thu tăng, nên đánh thuế vào tiêu dùng và khí thải thay vì lương bổng và lợi nhuận.
… nhưng nguyên tắc chung vẫn vậy
Chính phủ cũng phải đối phó với nạn thất nghiệp mà không làm sơ cứng thị trường lao động. Thất nghiệp cao có thể gây ra hậu quả dài hạn khi con người mất kỹ năng và các mối quan hệ công việc.
Nguy cơ này khẳng định tính cần thiết của những nỗ lực giảm sa thải và khuyến khích thuê thêm nhân công. Nhưng không phải liều thuốc nào cũng như nhau.
Một số chương trình đang dành được sự ủng hộ hiện nay, ví dụ như trả tiền cho chủ lao động để cắt giảm giờ làm thay vì đuổi việc tại Đức, chỉ là những nỗ lực nhằm giữ số lượng lao động một cách giả tạo.
Các nền kinh tế phải được tự do “sáng tạo” lại chính mình và để các ngành ăn nên làm ra thay thế những ngành ốm yếu.
Quá trình phục hồi năng suất chính là yếu tố quyết định “trạng thái bình thường” mới. Sáng tạo đóng vai trò chủ chốt ở các nước giàu. Thương mại lại quan trọng hơn ở các khu vực khác.
Cả hai yếu tố này hiện đều đang trong vòng nguy hiểm. Doanh nghiệp không còn tiền để nghiên cứu và phát triển. Các nền kinh tế mới nổi đang phải tính toán lại sự lệ thuộc vào xuất khẩu để tăng trưởng.
Cả nước giàu lẫn nước nghèo đều đang có xu hướng can thiệp sâu vào nền kinh tế. Họ nên tránh bảo hộ cho những ngành nhất định bằng các biện pháp bảo hộ hay trợ cấp.
Để thị trường tự hoạt động sẽ giúp cải thiện năng suất tốt hơn là dựa vào các chính sách công nghiệp vụng về.
Những khó khăn trước mắt thật ghê gớm. “Cảm giác về một “trạng thái bình thường” không thể đưa tới sự tự mãn,” tuyên bố G20 nhấn mạnh.
Cơn bão đã qua nhưng còn nhiều việc phải làm cũng như sẽ có nhiều lỗi lầm cần tránh nếu muốn con đường tái thiết được suôn sẻ.
Theo Economist
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét