Thay vì cho các nước phát triển vay hay xây nên những kho dự trữ ngoại hối khổng lồ, hãy hướng luồng vốn nhàn rỗi tới các quốc gia đang phát triển.
Đời sống đi vào những câu chuyện ngụ ngôn. Câu chuyện “Kiến và Châu chấu” trong kỳ trước đã tả lại một cách giản lược nền kinh tế của thế giới này.
Bài viết này sẽ bàn về hai vấn đề: ai được lợi từ dòng chu chuyển thương mại giữa châu chấu nhập siêu và kiến xuất siêu? Liệu cả hai có thể cùng tồn tại?
Thứ nhất, lợi lộc về tay ai? Ông Robin Harding nêu lên câu hỏi này sau khi đọc lời khuyên trong bài trước rằng: “Nếu muốn làm giàu bền vững, đừng có cho lũ châu chấu vay tiền.” Ông hỏi: thế còn lợi lộc của châu chấu thì sao?
Câu trả lời truyền thống sẽ là cả hai cùng hưởng lợi từ bất kỳ trao đổi tự nguyện nào, bao gồm cả các “giao dịch trả sau” theo đó kiến giao hàng ngay cho châu chấu nhưng lại nhận tiền sau.
Dù vậy điều này dựa trên giả định các quyết định đều có đầy đủ thông tin, thị trường linh hoạt và hợp đồng được tuân thủ. Chẳng có giả định nào trong số đó hợp lý cả.
Có độc giả cho rằng một lý do khiến người ta không đưa ra được các quyết định hợp lý là vì lũ “châu chấu hoang” (giới tư bản tài chính) đã đánh lừa cả kiến lẫn châu chấu.
Các vấn đề về thông tin và môi giới trên thị trường tài chính khiến kiến và châu chấu khó mà hiểu nổi cái gì đang diễn ra. Tệ hơn, “châu chấu hoang” dùng tới tri thức và sự giàu có của mình để sắp đặt cuộc chơi sao cho có lợi về mình.
Thị trường tài chính chắc chắn sẽ phải trải qua những chu kỳ sôi động hay hoảng loạn mà trong đó thị trường bất động sản đóng một vai trò quan trọng.
Mọi chuyện còn tốt đẹp khi giá đất còn tăng, còn có vật thế chấp mà vay tiền và còn có động lực để chấp nhận rủi ro. Giông tố đến khi giá nhà đất sụp đổ kéo theo phá sản hàng loạt đánh gục những định chế tài chính dùng nhiều đòn bẩy.
Một số nhà kinh tế đặt câu hỏi rằng liệu lợi ích của thương mại hàng hóa dịch vụ có giống như lợi ích của giao dịch tài chính hay không.
Ông Jagdish Bhagwati từ ĐH Columbia đã viết một bài báo nổi tiếng về chủ đề này sau khủng hoảng tài chính Châu Á 1997-98. Trong đó, ông đã công khai lên án cái gọi là “tổ hợp Phố Wall-Bộ Tài chính Mỹ”.
Tóm lại, không thể giả định rằng tài chính xuyên biên giới cho phép kiến và châu chấu đưa ra quyết định sáng suốt về thời gian cho vay và chi tiêu.
Kiến có khả năng sẽ phát hiện ra rằng tiền của mình đã bị đầu tư vào sản xuất các tài sản không mua bán quốc tế được, ví dụ như nhà đất. Thực tế kiến cũng thấy khó mà đòi được tiền của đàn châu chấu.
Trong khu vực đồng tiền chung Châu Âu (eurozone), các đàn kiến hùng mạnh có thể kiểm soát các quốc gia đang gặp vấn đề, nhưng đó chỉ là các nước nhỏ mà thôi. Không thể có chuyện tương tự với Mỹ, con nợ ròng lớn nhất thế giới.
Dường như ít nhất châu chấu cũng hưởng lợi từ dòng tài nguyên miễn phí chảy vào lãnh thổ mình. Nhưng giả thuyết trên không còn đúng nếu kết quả lại là tiêu dùng không bền vững và thiếu đầu tư cho năng lực sản xuất các hàng hóa dịch vụ có thể mua bán quốc tế.
Khi dòng vốn vào ngừng lại, nền kinh tế sẽ sụp đổ đau đớn, và thậm chí còn hơn thế nữa nếu cơ chế tỷ giá cổ định (hay liên minh tiền tệ) đỏi hỏi phải có một thời kỳ giá và lương cùng giảm.
Điều đó tới lượt mình lại có xu hướng làm tăng giá trị các khoản nợ, làm tình cảnh của đàn châu chấu đang ngập trong nợ nần càng thêm khó khăn.
Nói chung, dòng vốn khổng lồ kiến đã cấp cho châu chấu có vẻ như chẳng mang lại lợi lộc cho bất kỳ ai.
Đúng là kiến đã nâng cao được năng lực sản xuất của mình. Nhưng chúng cũng tích trữ ca những tài sản xấu và trở nên phụ thuộc vào nhu cầu thiếu bền vững của châu chấu.
Nền kinh tế của đàn châu chấu tới lượt mình lại dựa vào dòng vốn không bền vững và tiêu dùng quá mức. Khi bữa tiệc xa hoa đi đến hồi kết, cả hai bên đều không thiếu chuyện để đau đầu.
Điều đó dẫn tới câu hỏi thứ hai rằng: liệu có cách nào để kiến và châu chấu cùng sống hòa hợp?
Câu trả lời một phần phải là giảm tính bất định của thị trường tài chính, tức phải tập trung vào cuộc tranh luận về điều tiết thị trường.
Có hai điểm cần lưu ý như sau: thứ nhất, giảm các trạng thái cực đoan trong thị trường bất động sản bằng cách đánh thuế thu nhập từ cho thuê nhà; thứ hai, dỡ bỏ động cơ dùng đòn bẩy trong các quy định về thuế.
Dù vậy vấn đề lớn nhất đối với hệ thống toàn cầu là nỗ lực “cung cấp tài chính tự động” của kiến cho châu chấu. Rút cục, cả kiến và châu chấu đều thất vọng.
Tốt hơn đàn kiến nên sử dụng số tiết kiệm thặng dư của mình để cho lũ kiến trẻ hơn vay. Vì thế tiền sẽ chảy tới các quốc gia mới nổi, đặc biệt là đầu tư cố định tại các nước này.
Đó cũng là cơ hội đầu tư mới tốt nhất có thể và khoản nợ cũng có nhiều khả năng được hoàn trả từ năng lực sản xuất mới được tạo ra.
Đó là một đề xuất sáng suốt nếu không vấp phải hai thách thức lớn.
Thứ nhất, mọi cố gắng hướng luồng vốn ròng tới các quốc gia mới nổi trong ba thập niên trở lại đây đều kết thúc bằng một cuộc khủng hoảng.
Thứ hai, các nước mới nổi quyết định duy trì tài khoản vãng lai thặng dư và biến số thặng dư này thành dự trữ ngoại hối. Ví dụ như theo IMF thặng dư tài khoản vãng lai của các quốc gia mới nổi năm 2010 là 420 tỷ đôla, tổng tích lũy cho dự trữ là 630 tỷ đôla.
Do đó, tính tổng lại thì các quốc gia mới nổi đang biến thặng dư tài khoản vãng lai cộng thêm dòng vốn tư nhân ròng thành dự trữ. Gần như toàn bộ thặng dư là của các nước Châu Á mới nổi nói chung và Trung Quốc nói riêng, mặc dù các nước này đang có những cơ hội đầu tư tốt nhất.
Khi nào điều này còn diễn ra, những đàn châu chấu từ các nước phát triển sẽ còn là người tiếp nhận vốn ròng và chắc chắn chúng sẽ tiếp tục lãng phí số vốn ấy.
Dù vậy, dưới áp lực của chính cuộc khủng hoảng, nhiều đàn châu chấu xưa kia đang bị buộc phải cư xử “giống kiến hơn”. Nếu những tổ kiến giàu có hiện nay không thay đổi cách ứng xử của mình, thặng dư tiềm năng sẽ là khổng lồ.
Hoặc là toàn bộ các nước mới nổi thu hút số vốn này cho các tổ kiến “đang phát triển” giàu tiềm năng, hoặc là toàn thế giới sẽ mắc kẹt trong “cái bẫy sức cầu” khi mà ai ai cũng cố đạt thặng dư xuất khẩu.
Dòng chu chuyển vốn từ các tổ kiến dựa vào xuất khẩu sang các đàn châu chấu tiên tiến kết thúc trong nước mắt. Dòng vốn từ các tổ kiến đã trưởng thành tới các tổ kiến trẻ hơn vẫn chưa được khơi thông.
Nếu không tìm ra cách nào khắc phục những thiếu sót trên, ngay cả chính nền kinh tế tự do trao đổi cũng có thể biến mất.
Minh Tuấn
Theo FT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét